Được tạo bởi Blogger.

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

Sau đây là một số bênh lý thường gặp trên giống gà đông tảo. Bà con xem và phòng bênh cho gà nhé.
Bệnh cúm
1/ Triệu chứng: Rối loạn về hô hấp là chủ yếu ở ga dong tao. Gà  biểu hiện khó thở, xoang mũi và xoang miệng bị viêm có nhiều dịch nhầy lẫn máu, mào tím tái, đầu bị sưng phù. Chảy máu dưới da là đặc trưng của bệnh cúm gà. Sản lượng trứng giảm rõ rệt, tỷ lệ chết thấp.
2/ Bệnh tích: Xuất huyết dưới da và phù đầu. Xung huyết và xuất huyết ở niêm mạc đường hô hấp, ở lớp mỡ phủ tạng, phổi bị viêm và túi khí có chứa dịch nhầy dạng casein.
3/ Cách phòng trị: Thực hiện tiêm phòng bằng vaccine H5N1. Hiện nay chưa có thuốc điều trị bệnh cúm. Khi phát hiện gà bị bệnh cần báo ngay cho Trung tâm Nông nghiệp huyện hoặc cán bộ thú y xã để được hướng dẫn xử lý kịp thời.

Bệnh newcastle (Bệnh tân thành gà)
1/ Triệu chứng: Bệnh thường xảy ra vào mùa đông ở mọi lứa tuổi. Gà đông tảo ủ rũ, bỏ ăn, khó thở (khò khè), có nhiều rãi, mào tím, khát nước, đi ỉa chảy, phân lỏng, quánh nhớt màu trắng có lẫn máu, mùi tanh khó chịu. Bệnh kéo dài thể hiện triệu chứng thần kinh như ngoẹo đầu và cổ. Gầy sút nhanh, đi vòng tròn, thường chết sau 5-7 ngày.
2/ Bệnh tích: Xuất huyết nặng ở đường tiêu hoá, rõ rệt nhất ở dạ dày tuyến. Niêm mạc đường hô hấp xung huyết, có nhiều dịch nhầy từ thanh quản tới các phế quản nhỏ, túi khí đục và dầy lên, tim xuất huyết.
3/ Cách phòng trị: Thực hiện nghiêm ngặt lịch tiêm phòng, khi gà được 03 ngày tuổi và 21 ngày tuổi dùng vaccine Lasota nhỏ mũi, mắt. 2 tháng tuổi tiêm vaccine Newcastle hệ I. Không nên mua gà chưa tiêm phòng, gà không rõ nguồn gốc về nuôi. Nuôi cách ly gà mới mua về.

Bệnh gumboro
1/ Triệu chứng: Thể lâm sàng: Ở gà 3-6 tuần tuổi và có thể trên 10 tuần tuổi. Biểu hiện đầu tiên là cơ vòng hậu môn luôn co bóp, sốt cao, bỏ ăn và khát nước, sau ỉa chảy, gà chết cao nhất ở ngày thứ 3 sau đó giảm hẳn mà không cần can thiệp. Phân loãng có màu trắng, lẫn máu; gà ủ rũ, lông xù, xã cánh, nằm quẹo rồi chết.
- Thể ẩn thường xảy ra ở gà dưới 03 tuần tuổi gây suy giảm miễn dịch. Vì thể hiện lâm sàng không rõ nên dễ nhầm với các bệnh khác nhất là bệnh Newcastle.
2/ Bệnh tích: Giai đoạn đầu túi Fabricius sưng rất to, sau teo lại có nhiều dịch nhầy màu trắng, có nhiều điểm và vệt xuất huyết. Thận sưng và xuất huyết sau đó ruột và dạ dày tuyến xuất huyết nên dễ nhầm với bệnh Newcastle. Giai đoạn cuối xuất hiện từng vệt xuất huyết ở cơ đùi và cơ ngực.
3/ Cách phòng trị: Nhập gà ở nơi không có bệnh và đã tiêm phòng bệnh Gumboro ở đàn gà mẹ. Nuôi cách ly gà mới nhập.
- Thực hiện việc tiêm phòng theo đúng lịch quy định của nhà sản xuất. Nuôi gà tập trung trong dân tốt nhất nên dùng vaccine nhỏ mắt, cho uống hay tiêm dưới da vào 1 ngày, 7 ngày và 14 ngày tuổi. Những nơi trước đây đã có dịch nên tiêm phòng liều thứ tư vào 21 ngày tuổi.
Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu bệnh Gumboro.

Bệnh hô hấp mãn tính (CRD: Chronic Respiratory Disease)
1/ Triệu chứng: Gà mắc bệnh thường ủ rũ, kém ăn và chậm lớn. Triệu chứng bệnh thể hiện rõ rệt như hắt hơi, ho, thở khò khè (hen), thở khó.
2/ Bệnh tích: Viêm khí quản mãn tính nên niêm mạc bị xung huyết. Viêm túi khí nếu kết hợp với E.Coli thì túi khí đục có dịch nhầy quánh như bã đậu, tim sưng to.
3/ Cách phòng trị: Gà giống hay trứng phải được nhập từ trại gà không có bệnh CRD.
- Vệ sinh tốt chuồng trại đảm bảo thoáng mát vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông và khô ráo vào mùa mưa.
- Có thể dùng một số kháng sinh để phòng và chữa bệnh như: Tylosulfa, Tyamulin, Suanovil-5, CRD stop, Gentatylo… Một tháng sử dụng 2 lần mỗi lần 3 ngày liền theo liều phòng bệnh. Chỉ dùng vaccine phòng cho gà giống quý vì giá vaccin quá đắt.

Bệnh bạch lỵ
1/ Triệu chứng: Gà con bỏ ăn, ủ rũ, lông xơ xác, nằm chết chất đống trong chuồng, tỷ lệ mắc bệnh cao tới 40%. Triệu chứng điển hình là ỉa phân trắng. Phân dính vào lông quanh hậu môn. Gà con mắc bệnh còi cọc, chậm lớn và thường bị què do viêm khớp. Trứng bị nhiễm Salmonella có tỷ lệ ấp nở thấp. (Salmonella là vi khuẩn gây ra bệnh bạch lỵ)
2/ Bệnh tích: Gan và lách sưng to có điểm hoại tử, rốn bị sưng, túi lòng đỏ chưa tiêu. Tim, phổi có những nốt sần màu xám. Kết tràng, mang tràng chứa dịch nhầy quánh như bã đậu. Ga dong cao lớn mang trùng thì buồng trứng biến dạng méo mó, viêm bao tim, viêm màng bụng, viêm khớp.
3/ Cách phòng trị:
- Gà giống hay trứng phải được nhập từ trại gà không có bệnh. Tiêu độc máy ấp vào trứng trước khi đem ấp.
- Dùng thuốc phòng bệnh ngay sau khi gà mới nở. Có thể sử dựng một trong số các loại thuốc sau: Chlortetra-C 5g/3kg thức ăn, Ampi-septol 4g/2kg thức ăn, Gentacostrim 1g/2lít nước uống.
Bà con nhớ chăm sóc gà đông tảo nhà mình cho thật tốt nhé.
Chúc bà con làm ăn phát đạt!

Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2013

Nguồn gốc cái tên gọi loài gà quý hiếm của Việt Nam...
Ảnh minh họa
Gà Đông Tảo hay gà Đông Cảo là một giống gà đặc hữu và quý hiếm của làng Đông Tảo nói riêng và Việt Nam nói chung, không nơi nào trên thế giới có. Giống gà này dần dần được nhiều người biết đến do có những đặc điểm nổi bật hơn các loại gà khác. Đó là chân to, xù xì, to con, thịt rắn chắc, thơm ngon.
Lạ thay quá trình lan truyền của nó cũng ra các tỉnh thành khác với cái tên Gà Đông Cảo. Có thể là do những người từng buôn bán rau, củ, quả từ các nơi khác đến chợ Đông Tảo (nay là chợ đầu mối Đông Tảo). Họ hay gọi là chợ Đông Cảo, và họ đương nhiên cũng gọi giống gà ở đây là gà Đông Cảo. Cứ như vậy gà Đông Tảo được truyền miệng khắp nơi với cái tên Gà Đông Cảo. Và từ đó đến nay nó vẫn thành một cái tên gọi của du khách thập phương. Còn người Đông Tảo chính gốc thì 100% họ gọi đó là gà Đông Tảo. Thế nên theo mình thì cái tên gà Đông Tảo là tên chính xác nhât.

Nguồn: gadongtaohy.info

Chủ Nhật, 30 tháng 6, 2013

Gà Đông Tảo bây giờ lại “lên ngôi”. Dân có tiền lại quay sang ăn gà Đông Tảo. Thôi thì họ thích thứ gì, bà con mình chiều thứ ấy. Thời đại kinh tế thị trường mà!



Tận Cà Mau mà có người điện ra cho tôi yêu cầu cung cấp thông tin và nơi bán giống gà đông tảo. Ông cho biết, trong này đã có người nuôi và bán rất đắt. Nhưng ông hỏi mua giống thì người ta từ chối. Tôi lên Cao Bằng, cũng có người hỏi thăm tôi về giống gà này... Té ra, gà Đông Tảo bây giờ lại “lên ngôi”. Dân có tiền lại quay sang ăn gà đông tảo. Thôi thì họ thích thứ gì, bà con mình chiều thứ ấy. Thời đại kinh tế thị trường mà!

Gà Đông Tảo rất dễ nhận. Nó có một đôi chân rất to, to gấp nhiều lần các loại gà khác. Trông rất thô và đi lại cũng khệnh khạng. Đây là giống gà được dân xã Đông Tảo (huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên) nuôi từ thời xa xưa. Bà con đã nuôi qua nhiều đời và cũng rất tự hào về nó.

Nhiều tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ cũng đã đưa gà Đông Tảo về nuôi. Gần đây, một số gia đình ở miền Trung và miền Nam cũng ra tận Hưng Yên để đưa giống gà Đông Tảo về nuôi thử. Tết vừa qua, giá gà Đông Tảo lên vùn vụt. Họ đồn rằng, đưa gà Đông Tảo lên bàn thờ để cúng thì làm ăn sẽ phát đạt. Thế là nhiều người đổ xô đi tìm gà Đông Tảo. Giá mà thứ gì mà bà con mình làm ra mà dân thành phố cũng đồn như vậy thì hay quá!

Thực ra, gà Đông Tảo cũng rất đáng nuôi. Nó là loại gà có cơ thể lớn, lúc trưởng thành, con trống nặng 4,5kg và con mái nặng 3,5kg. Gà nuôi sau 160 ngày thì bắt đầu đẻ. Nó đẻ khoảng 70-80 trứng/năm.

Trứng của nó cũng khoảng 48-55g/quả. Gà có thể tự ấp hoặc ta cho ấp máy. Gà con nở ra khoảng 38 - 40g/con. Bọn này mọc lông chậm hơn các loại gà khác. Gà con có lông màu trắng đục. Khi trưởng thành, con mái có màu lông vàng nhạt hoặc nâu nhạt. Còn con trống trông oai vệ hơn.

Nó có màu lông mận chín pha đen. Ở đỉnh đuôi và cánh có màu lông đen nhưng ánh xanh. Chúng có mào kép kiểu “nụ hoa hồng” hay “bèo dâu”. Gà Đông Tảo trông bệ vệ, thân hình to, ngực sâu, lườn rộng và dài, xương to. Nó đi lại chậm chạp và nặng nề. Tuy nhiên, nó cũng là giống dễ nuôi, dễ sống và thích ứng được với điều kiện tự nhiên của chúng ta. Thực tế cho thấy, nhiều vùng đã nuôi gà Đông Tảo và đều cho kết quả tốt.

Chúng ta đã có một giống gà bản địa có chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, đa phần chúng được nuôi thả, tốc độ lớn chậm. Vì vậy, khi những giống gà công nghiệp tràn vào, gà ta thường thất thế. Thời khó khăn, người ta cần số lượng hơn là chất lượng. Đặc biệt, trong những năm chiến tranh triền miên, điều kiện rất khó khăn, thị trường càng đòi hỏi giống gà lớn nhanh, thịt nhiều. Nhưng rồi, chiến tranh đã qua đi. Cuộc sống của nhân dân cứ ngày một khá hơn.

Thị hiếu của các bà nội trợ lại hoài tưởng về những món ngon xa xưa. Hàng loạt loại cây trồng và vật nuôi truyền thống được khôi phục lại. Gà Đông Tảo nằm trong số đó. Tất nhiên, với kiến thức khoa học ngày nay, chúng ta sẽ nuôi chúng theo các phương pháp tốt hơn. Có nghĩa là, phải chọn đúng giống, giống tốt, giống phải được tiêm chủng đầy đủ. Chế độ dinh dưỡng cho chúng phải được đảm bảo, chuồng trại sạch sẽ, mát mẻ, sân chơi rộng rãi...

Biết đâu, nuôi gà Đông Tảo lại mau giàu!

Bà con cần giống gà vui lòng truy cập  http://gadongtaohy.info
Chăn nuôi, kinh doanh gà đông tảo giờ đây đã thành trở thành một hướng đi mới cho nhiều hộ gia đình tại xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, Tỉnh Hưng Yên. Không chỉ mang lại lợi nhuận rất cao mà còn góp phần phát triển và bảo tồn nòi giống cho vùng quê Đông Tảo cũng như cho Việt Nam ta. Sau đợt tết năm 2012 vừa rồi thì gà giống cũng được phân phối rộng rãi trên cả nước...
ga dong tao
Hình minh họa
Trong bài này mình sẽ giới thiệu cũng như hướng dẫn các bạn cách chăm sóc giống gà đông tảo này. Do là giống gà này có thể trọng khá là khỏe mạnh nên cũng không có gì khó khăn trong việc chăn nuôi chúng.

- Năng suất, sản phẩm: Bắt đầu đẻ lúc 160 ngày tuổi. Nếu để gà đẻ rồi tự ấp thì trong 10 tháng sẽ đẻ được 70 quả. Còn nếu gà đẻ rồi lấy trứng ra ấp, thì gà đẻ khoảng 100 quả/ năm.

- Khối lượng trứng: 48-55 gam/quả. Thường được dùng để cúng tế - hội hè. Là vật nuôi cổ truyền
Thức ăn: cho gà Đông Tảo ăn lúa, bắp tẻ nguyên hạt, hoặc thức ăn gà trộn rau muống, rau lang xắt nhỏ là chính, có thể kèm lúa, bắp xay…( thức ăn của gà Đông Tảo gần giống như thức ăn các loại gà thả vườn.

- Chú ý: Nuôi gà Đông Tảo cần đặc biệt quan tâm bảo quản gà con. Khi mới nở, ngoài vài cọng lông cánh nhỏ, gà con mang lông tơ đầy mình. Sau 3 – 4 tuần tuổi, gà rụng hết lông tơ mới mọc lông vũ một cách chậm chạp trong 4 – 5 tháng.
       Để biết thêm thông tin chi tiết về kỹ thuật khác xin vui lòng liên hệ với Trại Gà chúng tôi.
       Xin cảm ơn!

Nguồn: gadongtaohy.info

Thứ Sáu, 21 tháng 6, 2013

Sau dịp tết nguyên đán năm 2012 vừa qua với thành công lớn từ một số hộ chăn nuôi Gà Đông Tảo giống và gà thịt, gà biếu. Thì đến đầu năm 2013 có thêm rất nhiều hộ đã mở rộng đầu tư chăn nuôi quy mô rất lớn phát triển giống gà có gía trị cao này. Cũng nhằm nâng cao kinh tế gia đình và góp phần việc bảo tồn nòi giống thuần chủng của làng gà đông tảo.
Do vậy, giờ đây làng gà đông tảo đã có đủ số lượng để cung cấp con giống phân phối trên cả nước. Rất nhiều khách từ các nơi xa đã về mua giống tại làng gà đông tảo để mở trang trại lớn tại Miền Nam.

Giống gà Đông Tảo dễ nuôi, dễ thích nghi với mọi vùng miền. Trung bình mỗi gà mái đẻ 12 lứa/năm, mỗi lứa khoảng 10-12 trứng. Hiện,  gà mới nở có giá 150.000 đồng/con, trung bình một lứa 10-12 con, thu về 1,5 - 1,8 triệu đồng. Ước tính, một cặp gà bố mẹ cho trứng ổn định sẽ cho thu  20 triệu đồng/năm, hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều lần so với các giống gà khác.

 Nguồn bài từ: gadongtaohy.info

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

I. Giới thiệu về chim trĩ đỏ khoang cổ1.1. Nguồn gốc, phân bố và đặc điểm sinh học
Chim Trĩ đỏ khoang cổ là loài chim thuộc Họ Trĩ (Phasianidae) nằm trong Sách đỏ Việt Nam. Chúng chủ yếu sống tại các khu vực miền bắc Việt Nam (Lạng Sơn, Quảng Ninh …), rừng quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), khu bảo tồn U Minh Thượng (Kiên Giang), khu bảo tồn thiên nhiên Phong Điền (Thừa thiên Huế) và phía Đông Nam Trung Quốc. Chim Trĩ khoang cổ tên khoa học là Phasianus colchicus Linnaeus. Khi trưởng thành con đực có màu lông sáng, đầu và cổ con đực có màu xanh nhạt với 1 khoang trắng rõ rệt xung quanh vùng cổ, giữa ngực là 1 màu đỏ tía đậm, các vùng bên cạnh có màu sáng hơn, hai bên sườn có màu vàng nhạt (vàng tái) với các vết đen trên diện rộng, lông đuôi có màu vàng oliu (nâu vàng nhạt) với các sọc ngang rộng màu đen. Trong khi đó con cái có nhiều vết đốm rõ rệt, các lông cổ màu nâu và đen kẻ sọc quanh chỏm đầu, với các đường viền có màu hạt dẻ, phần lông phía sau lưng và ngực có màu lốm đốm, phần giữa có màu nâu đen, vùng bụng có màu nâu nhạt. Các lông đuôi rất rõ rệt với các đường gợn sóng dày khít có màu vàng sẫm và đen. Chim trĩ non rất khó phân biệt trống mái, đến hơn 3 tháng mới phân biệt được dựa vào màu lông.
Chim Trĩ có sức sống, khả năng thích ứng và kháng cự mạnh mẽ đối với bệnh tật, sống được ở nhiệt độ từ - 32oC đến 46oC.
Trĩ đỏ lớn rất nhanh và có khả năng đề kháng rất cao nên ít mắc bệnh. Ngoài 8 tháng là trĩ mái bắt đầu đẻ trứng, mỗi con mái trưởng thành trong một năm có khả năng đẻ 90 – 100 quả trứng. Nuôi nhốt trong điều kiện thiếu các phương tiện ấp trứng nhân tạo thì khó thành công vì chim trĩ đỏ không còn nhớ bản năng ấp trứng. Những hộ nuôi ít thì thường cho gà ấp hộ, tỉ lệ ấp nở thành công tới hơn 75%. Nếu được ăn đầy đủ, thêm côn trùng, mỗi con trĩ đỏ mái có thể đẻ đến hai trứng mỗi ngày. Nếu dùng máy ấp nhân tạo với các thông số độ ẩm, nhiệt độ phù hợp thì có thể cho tỉ lệ nở 80 – 85 %. Tại miền Bắc, chim Trĩ sinh sản kéo dài từ tháng 02 đến tháng 09 trong năm.
Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật nghiên cứu tổng kết tại trang trại của Cty CP thực phẩm tiêu chuẩn GAP như sau:[*] Sản lượng trứng/mái/mùa sinh sản : 90 – 100 quả[*] Tỷ lệ trứng giống(%) : 92 – 95%[*] Tỷ lệ phôi (%) : 93 – 95%[*] Tỷ lệ nở/tổng trứng ấp (%) : 75 – 80%[*] Tỷ lệ nuôi sống (%) : 85%[*] Thức ăn bình quân giai đoạn đẻ : 60g – 70g/con/ngày[*] Chim Trĩ đỏ khoang cổ thương phẩm (nuôi 16 tuần tuổi)[*] Tỷ lệ nuôi sống (%) : 80 - 85%[*] Khối lượng cơ thể (g) : 1100 – 1300 g/con[*] Tiêu tốn thức ăn/kg tăng k.lượng cơ thể (g): 4800 – 5000 g

1.2. Giá trị kinh tế
Giá trị kinh tế của chim Trĩ chắc chắn gấp hàng chục lần gà. Trứng trĩ rất thơm ngon, bổ dưỡng. Hiện tại trứng trĩ cũng đang được thị trường rất ưa chuộng nên việc nuôi trĩ lấy trứng đang rất tiềm năng. Và điều quan trọng hơn tất cả là bảo tồn được nguồn gien cùng với việc đưa giống chim quý hiếm này vào phục vụ du lịch thậm chí thương phẩm hóa. Nuôi loài này với mục đích trước tiên là bảo tồn và tiến tới thương mại hóa thì phải nói là siêu lợi nhuận. Giá mỗi con 2,5-3 tháng tuổi là 400.000-500.000 đồng, loại 6 tháng trở lên ~ 1.000.000 đồng, loại đang thời kỳ đẻ trứng ~ 1.500.000 đồng, trứng trĩ hiện đang bán ra thị trường với giá 50 nghìn đồng/quả. Nếu so với nuôi gà thì bà con có thể thấy giá trị của con trĩ lớn thế nào trong khi nuôi trĩ chẳng khác nuôi gà là bao, chuồng trại có thể tận dụng các khu chuồng đã từng nuôi gà, nuôi lợn.
1.3. Giá trị dinh dưỡng và chữa bệnh
Thịt trĩ có hàm lượng protein cao lên tới 30% cao hơn hẳn hàm lượng protein trong thịt bò, thịt gà, thịt lợn, thịt cừu, giàu các vitamin A, C, B1, B2, B3, B6, B12, E, hàm lượng chất béo bão hòa và cholesterol thấp, chứa các amino axit thiết yếu cơ thể con người, trong đó có nhiều amino axit không tổng hợp được trong cơ thể, và giàu nguyên tố vi lượng thiết yếu như germanium (Ge), selenium (Se), kẽm (Zn), sắt (Fe), canxi (Ca). Trong y học cổ truyền, thịt chim trĩ được sử dụng như một vị thuốc, tính vị ngọt, bình. Công hiệu: bổ trung ích khí, tư bổ gan thận, chữa tiêu chảy, chủ trị tỳ vị hư yếu, ít ăn,… Thịt trĩ còn được dùng làm bài thuốc cho phụ nữ sau khi sinh: băng huyết, thiếu máu, suy nhược sau sinh, sa tử cung, và dạ dày, dùng làm thức ăn tăng cường sức khỏe cho người già, hồi phục sức khỏe sau bệnh, dùng cho trẻ em suy dinh dưỡng. Thường xuyên ăn thịt chim trĩ có tác dụng chống suy nhược thần kinh, giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch vành, bệnh tim phổi và có thể điều trị ngăn ngừa bệnh ung thư (theo Đại học Y của Trung Quốc).
1.4. Giá trị cảnh và Quà biếu
Việc nuôi chim cảnh đối với loài trĩ này hiện đang là một nhu cầu chắc chắn không nhỏ. Do tính chất quý hiếm và nhờ "ngoại hình" rất đẹp của chúng, nên hiện tại một phần nhỏ chim trĩ được nuôi làm cảnh trong các khu biệt thự cao cấp, các khách sạn, dùng làm trưng bày ở các triển lãm, hội nghị, còn phần lớn chim trĩ cung cấp cho các khu bảo tồn động vật hoang dã, vườn Quốc gia, khu du lịch sinh thái. Chim trĩ có thể được dùng làm quà tặng, quà biếu cao cấp, sang trọng, lịch sự vào các dịp lễ Tết, lễ hội, khánh thành, liên hoan,…Dưới thời các triều vua Trung Quốc, chim Trĩ dùng làm lễ vật cống của các nước nhỏ tới các nước lớn. Ở Mỹ, chim Trĩ được dùng làm một trong các món ăn sang trọng để thếp đãi các quan khách trong Nhà trắng. 
II. Chọn Giống:
Dựa vào đặc điểm cơ thể để phân biệt chim trống , mái :
Ở cùng lứa tuổi Chim trĩ trống thường có ngoại hình lớn hơn chim trĩ mái . Lúc còn nhỏ rất khó phân biệt chủ yếu dựa vào cảm quan nghề nghiệp và một số biểu hiện nhỏ về sự khác biệt trong tập tính sinh hoạt và ngoại hình chim .Có thể phân biệt bằng mặt thường qua việc so sánh kích thước cở thể , chiều cao chân , hoặc lỗ huyệt
. Khi bước vào thời kỳ 2 -3tháng tuổi chim trống có biểu hiện chuyển dần màu lông từ lâu nhạt sang màu đỏ pha ,lúc này trọng lượng và chiều dài cơ thể lớn hơn chim mái rõ rệt . Trên cổ chim trống hình thành tuyến lông màu đồng phía dưới là màu xanh lá cây hoặc màu tím sáng .Kế tiếp xuất hiện 1 vòng lông cổ màu trắng ( thường gọi là Trĩ Đỏ Khoang Cổ Trắng ) Lông đuôi có màu đỏ và màu hạt dẻ pha trộn với các vệt đen hoặc trắng nhạt .Trên má hình thành hai mào đỏ và hai chỏm lông sừng màu xanh thẫm . Chim Trống trưởng thành có thể nặng tới 1,5 – 2kg , lông đuôi có thể đạt 0,4 – 0,6m ,tùy theo chế độ chăm sóc và mật độ nuôi thả
Chim mái có kích thước nhỏ hơn chim trống .Sau khi thay lông ở thời kỳ 3-5 tháng tuổi chim mái sẽ ổn định ở bộ lông màu tối có những đốm đen ,pha lẫn màu hạt dẻ ., Chim mái có đuôi ngắn hơn chim trống , trọng lượng bình quân của một chim mái trưởng thành khoảng 0,7 – 1,3kg / con
Trong môi trường tự nhiên một chim trĩ đực thường quàn lý và giao phối với rất nhiều chim mái . Với bản tính rất hăng về dục vọng 1 chim trĩ trống có thể đạp liên hồi nhiều chim trĩ mái trong một thời gian ngắn , Chúng tôi đã quan sát và ghi nhận lại có những thời điểm chỉ trong thời gian chưa đầy 5 phút một chim trĩ đực đã đạp lien hồi tới 4 lần / 3 chim mái .Với tốc độ và sự uy hiếp rất mạnh đối phương nên việc nuôi ghép 1 trĩ đực và 1 chim mái để sinh sản là điều tối kỵ , Chim mái sẽ thường xuyên rơi vào trạng thái hoảng loạn , bị dập trứng , hoặc lồi Zoong ( tuột hậu môn ) đôi khi có vấn đề về tâm , sinh lý ảnh hưởng nghiêm trong đến thế hệ chim mới sinh ra . Tuy nhiên nuôi với tỷ lệ mái quá nhiều cũng không tốt cho chim trống và chất lượng phôi trứng . Qua nghiên cứu thực nghiệm Vườn Chim Việt đã ổn định đàn chim bố mẹ sinh sản theo tỷ lệ 1 trống + 3 mái .
Việc nuôi chim trĩ đỏ ở thời kỳ còn nhỏ thường gặp một số khó khăn nhất định lien quan đến chế độ dinh dưỡng , điều kiện môi trường đặc biệt là khâu vận chuyển , Vì vậy những người mới nuôi hoặc chưa có kinh nghiệm nuôi trĩ đỏ nên hạn chế việc đầu tư mua con giống size nhỏ . Người mua nên chọn mua những cá thể chim ở thời kỳ 3 – 5 tháng tuổi hoặc chim hậu bị \
Trọn chim trống có ngoại hình to , cao , đuôi dài , lông mượt , trường chim ,dáng khỏe mạnh ,lanh lợi .Nếu ở thời kỳ trưởng thành chim trống luôn trong tư thế nghiêng mình sung trận
Chim mái : bầu chim , nở hậu , không dị hình , dị tật . Nên mua chim ở những cơ sở gây nuôi uy tín và có nhiều năm kinh nghiệm để lựa được những cá thể chim khỏe mạnh , không bị đồng huyết , cũng như được tư vẫn về kỹ thuật gây nuôi .
Một điểm đáng lưu ý : hiện nay chim trĩ đỏ vẫn nằm trong danh mục động vật hoang dã nên việc gây nuôi vẫn phải có khai báo với chi cục kiểm lâm sở tại .Phần lớn các cở sở nhân giống tự phát trên cả nước hiện vẫn chưa được đăng ký gây nuôi , Đây cũng là một vấn đề khó khăn trong công tác quản lý đối với các cơ quan hữu quan cũng như việc vận chuyển , buôn bán cho các hộ dân . Bà con nên tìm đến các cơ sở gây nuôi được cấp phép để mua con giống với nguồn gốc hợp lệ .Tránh mua trôi lổi trên thị trường sẽ gặp phải không ít khó khăn trong khâu vận chuyển cũng như công tác nhân giống và tiêu thụ sản phẩm về sau 
III. KỸ THUẬT CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG CHIM TRĨ ĐỎ KHOANG CỔ
3.1. Yêu cầu chung về chuồng trại:
Vị trí chuồng nuôi phải chọn nơi cao ráo, thoáng mát, cách xa các trại nuôi gia súc, gia cầm khác nhằm hạn chế tối thiểu mức rủi ro do lây nhiễm chồng chéo.
Chuồng trại phải đảm bảo giữ ấm về mùa đông, mát về mùa hè. Nền chuồng phải bằng phẳng, tiện cho công tác dọn vệ sinh, rải chất độn chuồng bằng phôi bào hoặc trấu có thể trộn với cát được phơi khô đã được phun khử trùng. Mặt khác phải đảm bảo thực hiện được biện pháp an toàn sinh học.
Lưu ý : Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2- 3 lần / tuần . Phun thuốc khủ trùng định kỳ . Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc , nhọn , sợi ninong trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều , chết.
Trong thời gian qua trên các diễn đàn mạng và truyền hình có giới thiệu 1 số mô hình nuôi chim trĩ đạt hiệu quả cao , tuy nhiên cách thiết kế chuồng trại thường theo phương thức chia nhiều ô với kích thước rất nhỏ , môi ô chỉ nuôi từ 1 -4 cá thể ( ghép bộ ) . Cách làm này tuy hạn chế được việc chim đánh , mổ nhau nhau nhưng lại tốn kém rất nhiều trong khâu thiết kế chuồng trại , máng ăn cũng như công chăm sóc , Mô hình ghép cặp chỉ thích nghi với điều kiện nuôi kiểng ,hoặc diện tích đất nhỏ .Tuỳ mục đích , quy mô sản xuất bà con có thể lựa chọn cách thiết kế chuồng trại sao cho phù hợp nhất với điều kiện sẵn có mà vẫn đảm bảo được yếu tố kỹ thuật trong việc quản lý và chăm sóc chim
3.2. Chuẩn bị dụng cụ và chuồng nuôi
Trước khi đưa chim vào nuôi dù quy mô lớn hay nhỏ cần phải chuẩn bị mọi điều kiện vật chất kỹ thuật như: lồng úm, chụp sưởi, máng ăn, máng uống, chất độn chuồng, tiêu độc khử trùng và chọn người nuôi.
+ Mật độ nuôi úm trong chuồng nhỏ
Chim 0 – 30 ngày tuổi : 40 - 15 con /m2 :
30 – 60 ngày tuổi : 12 – 6 con / m2
60 – 90 ngày tuổi : 4 – 2 con /m2
Sau 90 ngày tuổi có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con /m2
+ Lồng úm nuôi giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi
Lồng úm và dụng cụ chăn nuôi phải được cọ rửa sạch sẽ, để trống chuồng trước khi đưa chim vào nuôi 15 – 20 ngày và phải được xử lý theo đúng quy định về vệ sinh phòng dịch, tường, nền được quét nước vôi đặc nồng độ 40%. Sau đó để khô phun tiêu độc bằng xút 2% (NaOH) với liều 1 lít/m2 hoặc bằng các loại thuốc sát trùng khác như Foocmol 3% phun 2 – 3 lần. Trước khi thả chim Trĩ vào nuôi 1 – 2 ngày phun tẩy uế lại bằng Formalin 3% và đóng kín cửa. Sau khi phun 5h mở cửa cho thông thoáng bay hết mùi thuốc sát trùng rồi mới thả chim. Nếu như chồng trại xây mới thì có thể chỉ dùng thuốc sát trùng Virkon®S của hãng Bayer: pha 100g với 10 lit nước, phun 300ml/m2, phun toàn bộ trại bao gồm nền, tường, bồn ăn uống, không khí, giày ủng. Hầu hết các kiểu úm gia cầm đều phù hợp cho việc úm chim Trĩ.
Trong thời gian úm gột, để tập trung nguồn nhiệt tránh gió lùa sử dụng lồng úm với chiều cao 40 – 50 cm; chiều dài 1,0 – 1,2 m; chiều rộng 0,7 – 0,9 m. Xung quanh được đóng bằng gỗ ép hoặc cót ép, phía trên làm bằng lưới ô nhỏ để tránh chim bay, cửa lồng có thể nằm ở phía trên tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể. Lồng này dùng để úm chim non trong 28 – 30 ngày đầu, mỗi lồng như vậy có thể úm từ 50 – 80 chim.
+ Chuồng nuôi giai đoạn 5 – 12 tuần tuổi[*] Giai đoạn này chim Trĩ được nuôi thả ra nền chuồng bê tông để rải trấu hoặc phôi bào với độ dày 5 – 8 cm, có khu đổ cát để chim tắm cát. Chim Trĩ được thả ra ngoài nhằm cho chim vận động, nhưng phải có lưới quây để cho chim khỏi bay đi. Bên ngoài lớp lưới của sân chơi có thể phủ lên những cành cây giúp cho môi trường sống giống với các điều kiện tự nhiên. Giai đoạn này một chim cần 0,5 m2 tổng diện tích sàn bên trong chuồng nuôi, và 2 m2 diện tích nền bên ngoài được dùng cho việc vận động. Sau quá trình ấp, chim trĩ có thể được nuôi khép kín, nhưng cần thiết phải có nơi cư trú đầy đủ. Sân chơi được rào kín bằng lưới để ngăn chim thoát ra ngoài. Để ngặn chặn việc bay mất, kẹp lông cánh khi chúng 4 tuần tuổi hoặc cắt lông cánh ngay ban đầu.[*] Chim trĩ rất dễ kích thích và bay rất tốt, vì vậy chúng nên được nhốt trong chuồng nuôi hoặc các bãi rào được bao bọc cẩn thận. Nếu chúng có thể thoát ra ngoài sau khi sợ hãi, chúng có thể bay rất xa và mất.
+ Giai đoạn sau 12 tuần tuổi
Ở giai đoạn này có thể đưa chim ra chuồng lớn với mật độ nuôi 1 – 2 con/m2. Nên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim. Nếu tốn kém trong việc chia chuồng ra nhiều ô nhỏ thì có thể chọn phương án nuôi tập trung (quần thể).
Tường vây có thể xây hoặc dùng lưới B40, lưới mắt cáo. Trên lóc sử dụng các loại tấm lợp pro ximăng hoặc vật liệu rẻ tiền sẵn có tại địa phương, miễn sao đảm bảo chim không thoát ra ngoài.
Nền chuồng được dải một phần hoặc toàn bộ cát, sử dụng loại cát vàng, để chim tắm cát và làm ổ đẻ. Phần còn lại có thể sự dụng bằng nền betông, hoặc trồng cỏ trong khoảng sân chơi.
Mái che có thể lập toàn phần hoặc bán phần miễn sao đảm bảo thoáng về mùa hè, ấm về mùa đông. Với các địa phương khu vực phía bắc thường có rét đậm rét hại vào mùa đông, hoặc sương muối, nên che chắn cẩn thận toàn bộ chuồng nuôi bằng vải bạt và thắp điện sưởi để tránh rét cho chim. Với các tỉnh khu vực phía Nam và Tây Nguyên khí hậu nóng ấm quanh năm hạn chế phải che phủ chuồng trại hơn, tuy nhiên nên lưu ý đến các đợt mưa tạt, gió lùa vì đây là những thời điểm chim rễ mắc các bệnh về hô hấp, tiêu chảy, cầu trùng, tụ huyết trùng, thương hàn,...
Lưu ý: Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2-3 lần/tuần. Phun thuốc khử trùng Virkon S định kỳ 1 lần/tuần, tăng cường khi có dịch hoặc khí hậu ẩm ướt. Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc, nhọn, sợi nilon trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến thủng diều, chết.
+ Làm chuồng cho chim lớn :
Lên chia chuồng thành nhiều ô khác nhau để tiện cho công tác quản lý và theo dõi bệnh tật cũng như quá trình sinh trưởng và phát triển của chim :
Nếu làm chuồng mới để nuôi chim sinh sản có thể thiết kế theo khung cơ bản sau :
Rộng ngang : 3,5 m x dài 6 m x cao 2,5 – 2,8 m .
Với diện tích ô chuồng này có thể nuôi được 20 -25 cá thể chim bố mẹ sinh sản , hoặc 30 - 40 cá thể chim hậu bị
Lưu ý : Thường xuyên vệ sinh chuồng trại định kỳ 2- 3 lần / tuần . Phun thuốc khủ trùng định kỳ . Thường xuyên kiểm tra để loại bỏ các vật sắc , nhọn , sợi ninong trong khu vực nuôi đề phòng chim ăn phải sẽ dẫn đến tủng diều , chết.
3.3 Chăm sóc chim qua các thời kỳ sinh trưởng :
A ) Nuôi chim con ( giai đoạn từ 1- 3 tháng tuổi ) : Chim được nuôi trong lồng nhỏ bằng lưới mắt cáo , Sử dụng bóng điện hoặc đèn sưởi đám bảo nhiệt độ 25 -27 độ C. Không nuôi chim con tại nơi có gió lùa , mưa tạt , Che đậy cẩn thận để đảm bảo an toàn cho chim khỏi các vật nuôi khác tấn công : Chó ,mèo , chuột . Khu vực nuôi thường xuyên được khử trùng định kỳ tối thiểu 15- 20 ngày/ lần .
Thức ăn : sử dụng loại cám viên dùng cho gà con , sử dụng loại máng ăn , uống tự chế hoặc máng dùng cho gà miễn sao đảm bảo vệ sinh . . Nên cho lượng cám và nước vừa đủ, khi chim ăn hết nhấc máng ra vệ sinh và thay nước mới , Tránh để nước lưu lại sang ngày thứ 2 . Với chim nhỏ sức đề kháng yếu ta sử dụng loại nước cất hoặc nước đun sôi để nguội cho chim uống .
B ) Nuôi chim trưởng thành : Chim được nuôi trong lồng lớn sử dụng thức ăn dành cho gia cầm trưởng thành ,gia cầm sinh sản ( cám gà đẻ ) kết hợp với thóc . Tỉ lệ fa tuỳ theo thời kỳ sinh trưởng của chim : có thể dùng tới 60%thóc trong khẩu phần thức ăn . Ngoài ra kết hợp cho ăn thêm các loại rau xanh : rau muống , rau lang , thân cây chuối thái nhỏ ..vv . Hạn chế cho các loại thức ăn lạ : tôm , cua , cá có thể dẫn đến tình trạng chim bị tiêu chảy .
Trong quá trình nuôi đàn thường sảy ra hiện tượng chim cắn , mổ nhau : Vị trí mổ thường tập chung vào mắt ,đỉnh đầu hoặc lỗ huyệt ,Để hạn chế việc này ta có thể sử dụng 1 số phương thức sau :
+ Tách riêng cá thể chim bị đánh , hoặc chim đánh ra khỏi chuồng nuôi từ 3-5 ngày .Sau đó thả lại bình thường
+ Cho ăn bổ sung thêm 1 số khoáng chất : Ca , Zn . Có thể sử dụng loại thuốc trống cắn ,mổ bán tại các tiệm thú y để pha vào thức ăn cho chim
+ Cắt hoặc mài bớt phần mỏ dưới của chim (đây là liệu pháp bắt buộc trong quy trình nuôi công nghiệp theo quy mô lớn ) Việc cắt hoặc mài mỏ dưới của chim không làm ảnh hưởng đến ngoại hình ( vì phần mỏ dưới bị che khuất ) . Không ảnh hưởng đến quá trình sinh sản của chim trống . Vì thực chất chim trĩ đạp mái thời gian diễn ra rất nhanh ( từ 15 -30 giây ) không nhất thiết cần sự hỗ trợ của bộ mỏ , nếu có chỉ cần mỏ trên là đủ . Ngoài ra việc cắt , mài mỏ còn loại bỏ được nguyên nhân ăn trứng của chim . Đây là lý do một số người đã nuôi chim trĩ trong thời gian dài vẫn không thấy chim sinh sản .,Tuy được xem là phương pháp kỹ thuật tiêu biểu và sử dụng rộng dãi trên thế giới song với người nuôi chim trĩ của Việt Nam lại quan niệm chim cắt mỏ là chim Trĩ của Trung Quốc . Thực tế trong danh mục các loại chim không có khái niệm chim trĩ đỏ TQ , chim Trĩ Thái Lan hay chim Trĩ Việt Nam .Mà đó chỉ là vùng phân bố của chim trĩ .Vì vậy chỉ có 1 loại trĩ đỏ khoang cổ duy nhất như hình trên , Khi đưa vào môi trường nuôi nhân tạo thì ngoại hình , trọng lượng của chim do người nuôi quyết định : Ví dụ : Nếu sử dụng 100 % cám tổng hợp làm khẩu phần ăn , chim trĩ sẽ rất nhanh lớn và có thể đạt trọng lượng >2kg / con .Tuy nhiên chất lượng thịt thương phẩm sẽ giảm vì mất dần tính hoang dã của chim , đồng thời sức đề kháng của chim cũng kém đi ,Với chim mái có thể dẫn đến hiện tượng béo lú mà không sinh sản đựoc
Hiện nay trên 1 số diễn đàn mạng có đưa thông tin để phân biệt chim trĩ trung quốc và chim trĩ Việt Nam. Đó là phân biệt dựa vào ngoại hình và mỏ. Thực chất khi chim bố mẹ có cắt mỏ hoặc gẫy mỏ thì thế hệ chim con đẻ ra không hề bị ảnh hưởng, Vì vậy phần lớn khách hàng của Vườn Chim Việt sau khi nhân giống sang thế hệ thứ 2 đã giữ nguyên lại mỏ chim con , Cách làm này chỉ thích ứng cho việc nuôi kiểng với số lượng nhỏ ,nuôi ghép thành từng bộ , không thể nuôi đàn .Đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm và thiếu cơ sở khoa học .Và cũng là 1 trong những nguyên nhân khiến nhiều bà con phải bỏ tiền ra mua chim trĩ với giá rất cao vì nghe quảng cáo là chim trĩ Việt ,
Để khảng định được nguồn gốc chim cũng như chất lượng con giống bà con nên đến trực tiếp các trang trại gây nuôi có uy tín , được cấp phép của chi cục kiểm lâm sở tại , Tránh mua tại các tiệm chim hoặc thương lái vì chim mới bị nhập về thường bị nhốt trong môi trường chật , không được chăm sóc có thể mang sẵn mầm bệnh .
+ Máng ăn: [*] Giai đoạn 1 – 4 tuần tuổi: 4 tuần đầu có thể dùng máng nhựa, mẹt tre, máng tôn hình chữ nhật hoặc máng tròn, tuỳ theo kích thước của lồng úm. [*] Giai đoạn 5 – 9 tuần tuổi: từ tuần tuổi thứ 5 trở đi dùng máng ăn có kích thước to hơn (có thể là máng dài hoặc máng tròn). Máng dài có thiết diện hình thang, đáy nhỏ từ 5 – 8 cm, miệng rộng 7 – 13 cm, chiều dài của máng 1 – 1,5 mét; cao 4 – 8 cm có đế vững chắc tránh rơi vãi thức ăn.
Máng tròn có thể bằng nhựa hoặc bằng tôn làm theo kiểu máng P50 Hunggari nâng dần độ cao của máng theo tuổi của chim.
+ Máng uống:
Có nhiều loại song tuỳ thuộc điều kiện từng nơi, từng vùng mà áp dụng cho phù hợp và kinh tế. Thông thường dùng máng tròn (gallon) gồm phần đáy và thân nắp vào nhau làm bằng nhựa, thể tích máng uống tuỳ theo tuổi: Chim non dùng gallon 1 – 2 lít, chim dò hậu bị và sinh sản dùng gallon 4 – 8 lít. Máng uống dài có độ dài tương đương máng ăn nhưng thiết diện nhỏ hơn.
+ Chụp sưởi:
Chim non sau khi nở ra chưa có khả năng điều tiết thân nhiệt do đó phải có hệ thống chụp sưởi để cung cấp nhiệt độ cho chim đến khi chúng có khả năng điều tiết được thân nhiệt phù hợp với nhiệt độ môi trường, có thể dùng dây may so, bóng điện hoặc đèn hồng ngoại tuỳ theo số lượng chim con 01 ngày tuổi mà bố trí hệ thống sưởi cho hợp lý và hiệu quả kinh tế.
+ Chất độn chuồng:
Yêu cầu chất độn chuồng phải có khả năng hút ẩm, có thể dùng phôi bào, trấu, rơm rạ băm nhỏ. Lưu ý chất độn phải được phơi khô không có mùi mốc, phun sát trùng bằng Foocmol 2% hoặc Virkon®S. Cần có cát, sỏi bổ sung trong nền chuồng để có thể tắm hoặc ăn.
3.4. Chọn chim giống
Chọn những con nhanh nhẹn, mắt sáng, lông bông, bụng gọn, chân mập, khối lượng 20 - 23g là đạt yêu cầu. Loại ngay những con khô chân, vẹo mỏ, khèo chân, hở rốn, bụng nặng, lông bết.
3.5. Nhiệt độ, ẩm độ và thông thoáng
Hai tuần đầu tiên chim không tự điều chỉnh thân nhiệt một cách hoàn hảo, do đó các bệnh về đường hô hấp, tiêu hoá dễ phát sinh khi ẩm độ môi trường lên cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ nuôi sống và khả năng sinh trưởng của chim. Thời điểm khi chim xuống chuồng nên để nhiệt ở 350C, sau nhiệt độ được giảm dần xuống 300C khi chim được 3 tuần tuổi.
Từ tuần tuổi thứ 2 cần chú ý đến tốc độ mọc lông ở chim để điều chỉnh nhiệt độ cho thích hợp. Trong quá trình nuôi phải quan sát phản ứng của chim đối với nhiệt độ:[*] Nếu thấy chim tập trung gần nguồn nhiệt, chen lấn chồng đống lên nhau là chuồng nuôi không đủ nhiệt, chim bị lạnh.[*] Nếu chim tản ra xa nguồn nhiệt, nháo nhác, kêu, khát nước, há mỏ để thở là bị quá nóng cần phải điều chỉnh giảm nhiệt độ.[*] Nếu chim tụm lại một phía là bị gió lùa rất nguy hiểm, cần che kín hướng gió thổi.[*] Khi đủ nhiệt, chim vận động ăn uống bình thường, ngủ, nghỉ tản đều lồng úm.
Chim con cần chiếu sáng 24/24 giờ trong 4 tuần đầu, sau 5 – 9 tuần giảm thời gian chiếu sáng đến 16h, từ tuần thứ 7 – 9 lợi dụng ánh sáng tự nhiên, đảm bảo cường độ ánh sáng 3W/m2 là đủ. 
3.6. Nước uống
Nước là nhu cầu đầu tiên của chim khi mới xuống chuồng. Cần cung cấp nước sạch, tốt nhất là pha thêm 5g đường Glucoz và 1g Vitamin C/lít nước cho những ngày đầu, nước uống cho chim không được lạnh tốt nhất là hơi ấm 18 – 210C trong vài ngày đầu.
Sử dụng chụp nước tự động bằng nhựa 0,6 – 0,8 lít/50 chim non. Vị trí đặt máng uống phải bố trí cho chim dễ tiếp cận và không bị máng ăn che khuất. Tuân thủ cho chim uống nước trước, sau 2 – 3 giờ mới cho thức ăn.
3.7. Thức ăn và kỹ thuật cho ăn
Cũng như chăn nuôi các loài gia cầm, chăn nuôi chim cũng như vậy. Thức ăn của trĩ là cám tổng hợp (loại không có tăng trọng), ngô xay, thóc, đậu tương, rau xanh, cỏ,... Ngoài 2 tháng có thể cho trĩ tập ăn thóc bằng cách trộn 10 – 20 % vào khẩu phần ăn. Ở giai đoạn 5 – 8 tháng có thể trộn đến 50 % thóc vào khẩu phần ăn.
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu sinh lý đòi hỏi phát triển cơ thể ở mỗi giai đoạn sẽ khai thác tối đa tiềm năng di truyền của giống, đạt nhanh đến khối lượng giết mổ càng sớm càng tốt.
Chim Trĩ nuôi lấy thịt được chia ra các giai, đoạn 0 – 4 tuần tuổi; 5 – 9 tuần tuổi và 10 → giết mổ (10 – 16 tuần)
Nhu cầu dinh dưỡng cho Chim Trĩ thương phẩm nuôi thịt có thể tham khảo qua bảng 2.
Sau khi chim được uống nước 2 – 3 giờ thì mới cho ăn, thường cho ăn theo bữa. Thức ăn được trải đều vào nhiều khay tuỳ thuộc quy mô đàn để tránh sự tranh giành thức ăn giữa các con trong đàn. Chỉ nên cung cấp lượng thức ăn vừa đủ, một ngày đêm cho ăn 9 – 10 lượt để thức ăn luôn mới thơm, hấp dẫn tính ngon miệng và tránh lãng phí.
Một số điều cần lưu ý: [*] Thức ăn được phối chế cân đối đảm bảo đủ dinh dưỡng cho nhu cầu phát triển của chim trong từng giai đoạn.[*] Khẩu phần ăn có thể phối chế đa nguyên liệu, sử dụng thức ăn bổ sung động vật, thực vật, Premix khoáng vi lượng và Vitamin.[*] Không sử dụng các nguyên liệu bị mốc, nhiễm độc tố Afratoxin hoặc bột cá mặn (có hàm lượng muối cao).[*] Khẩu phần thức ăn được cân đối đủ các chất dinh dưỡng đáp ứng nhu cầu phát triển trong giai đoạn nuôi, thức ăn phối chế đa nguyên liệu, sử dụng đạm nguồn gốc động vật, thực vật, Premix Vitamin, khoáng vi lượng v.v.[*] Dùng đậu tương phải rang chín chim mới tiêu hoá được, nếu chín không đều chim ăn vào sẽ bị rối loạn tiêu hoá (đi ỉa).
3.8 Thời kỳ đẻ trứng và kỹ thuật ấp nở :
Chim trĩ giống bình quân sau khi nuôi đến 8 tháng tuổi có thể đẻ trứng . Thời gian đẻ thường từ đầu tháng 1 âm lịch đến khoảng tháng 4 âm lịch , Sau đó chim trĩ ngừng đẻ khoảng 1 tháng rồi tiếp tục đẻ lứa thứ 2 đến khoảng tháng 8 âm lịch thì nghỉ .Bình quân mỗi năm 1 chim mái có thể đẻ từ 68 -80 trứng .Với các tỉnh phía bắc nước ta nơi có mùa đông lạnh và kéo dài chim thường đẻ muôn hợn ,thường mùa đẻ chỉ bắt đầu khi vào mùa xuân ấp áp , Các tình khu vực phía Nam nơi có thời tiết nắng ấm mùa đẻ của chim trĩ thường sớm hơn và kéo dài hơn , Ngoài ra số trứng , thời gian đẻ còn phụ thuộc vào kỹ thuật nuôi , chế độ cho ăn , và quản lý vật nuôi . Nếu cho ăn tặng lượng đạm động vật , canxi và sử dụng 1 số tác nhân phụ có thể cho chim trĩ đẻ 2 quả / ngày hoặc đẻ quanh năm theo ý thích của người nuôi . Tuy nhiên phương pháp này chỉ áp dụng cho trường hợp khai thác trứng chim trĩ làm thương phẩm . Việc nhân giống chim không nên áp dụng , sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản của chim bố mẹ cũng như chất lượng con giống sinh ra
Chim trĩ trong tự nhiên không tự ấp trứng , chim thường đẻ nhờ vào tổ chim khác . Vì vậy khi đưa vào nuôi trong môi trường nhân tạo ta phải dùng tác nhân phụ để ấp trứng cho chim .Tỉ lệ nở phụ thuộc vào 2 yếu tố : là chất lưng phôi trứng , và kỹ thuật ấp
. Thường có 2 cách cơ bản để ấp trứng trĩ
a) Dùng vật nuôi khác có thân nhiệt và điều kiện ấp nở tương tự ( Thường dùng , gà mái hoa mơ , gà tre ..vv ) . Cách ấp này đơn giản như ấp trứng gia cầm thông thường tuy nhiên cho tỷ lệ thành công thấp và khó áp dụng cho nuôi quy mô lớn
b) Dùng máy ấp : Sử dụng loại máy ấp trứng gia cầm thông thường để ấp . Thời gian ấp nở khoảng 22 -23 ngày . Hiệu chỉnh nhiệt độ , độ ẩm tùy theo giai đoạn
:Nhiệt độ ấp trong tuần đầu : 37,5 độ C , Độ ẩm 55 %
Tuần thứ 2 Nhiệt độ 37,3 độ C , Độ ẩm 60 %
. Tuần thứ 3 trở đi nhiệt độ 37 độ , Độ ẩm 75 %
( Lưu ý sử dụng hoàn toàn nước cất để tạo độ ẩm , không dùng nước bẩn , có chứa tạp chất sẽ làm ảnh hưởng đến quá trình bay hơi của nước )
Các tia máu hình thành trong trứng trĩ thường rất mờ và khó phân biệt vì vậy đừng vội bỏ trứng ra khỏi lò xớm , Bản thân bên trong trứng trĩ cũng có chất hóa học bảo quản trứng rất tốt . Thường thì những quả trứng không có sống mà ấp tới 15 ngày vẫn không bị thối như trứng gà trứng vịt , Vẫn có thể ăn bình thường mà không nguy hại cho sức khỏe
Sau nhiều năm nuôi thực nghiệm đến nay Vườn Chim Việt đã thành công trong phương thức ấp nở đạt tỉ lệ 70 -80 % . Tỉ lệ nuôi sống thành công sau ấp nở đạt 85% .
Trong thời gian tới Vườn Chim Việt sẽ đầu tư nghiên cứu quy trình thụ tinh nhân tạo cho trĩ đỏ để mang lại hiêụ quả sản xuất con giống tốt hơn đáp ứng cho sức mua của thị trường nội địa
3.9. Mật độ
Tuỳ thuộc vào điều kiện chuồng trại, khí hậu mà quyết định mật độ đàn nuôi.
Nuôi trên lồng:
1 – 4 tuần tuổi: 30 – 40 con/m2
Nuôi trên nền sàn: sử dụng chất độn chuồng, có sân chơi:
5 – 9 tuần : 6 – 15 con/m2
10 – 16 tuần tuổi : 3 – 5 con/m2
3.10. Vệ sinh phòng bệnh
Khả năng chim Trĩ bị nhiễm, mắc các bệnh là rất cao. Với phương châm phòng bệnh là chính, đảm bảo nghiêm ngặt những quy định về vệ sinh phòng bệnh, sử dụng quy trình vệ sinh phòng bệnh tuỳ thuộc vào tình hình dịch tễ của từng địa phương. Phải quan sát theo dõi đàn chim thường xuyên như: Trạng thái ăn, ngủ, thể trạng, âm thanh tiếng thở, chất bài tiết v.v. để bất kỳ một dấu hiệu bất thường nào đều được xử lý kịp thời. Cần thiết phải kiểm tra đàn chim dựa trên các đặc điểm hàng ngày như sau:[*] Lắng nghe âm thanh bất thường hoặc thiếu vắng âm thanh hàng ngày[*] Trạng thái đàn chim (uể oải hay hung hăng)[*] Ngửi để xem có mùi khai hay sự kém thông thoáng.
Trong chuồng chỉ nuôi chim không nuôi chung với các động vật khác. Định kỳ diệt trừ các loài động vật gặm nhấm, chim hoang và côn trùng có hại khác. 2.10. Chăm sóc nuôi dưỡng
Chim được cho ăn tự do 24h/24h+ trong 4 tuần đầu, ban ngày dùng ánh sáng tự nhiên, đêm thắp điện sáng để chim ăn đêm. Trong điều kiện thời tiết và nhiệt độ thuận lợi (ấm áp khô ráo) sau 4 tuần tuổi (nếu thời tiết lạnh dưới 200C thì sau 6 - 7 tuần tuổi) có thể cho chim vận động giống như trong tự nhiên để giúp cơ săn chắc nâng cao chất lượng thịt.
Mức tiêu thụ thức ăn
Số lượng thức ăn được chim trĩ tiêu thụ sẽ thay đổi phụ thuộc vào các yếu tố như dạng thức ăn, phương thức cho ăn, thành phần dinh dưỡng và các điều kiện thời tiết. Một con chim trĩ từ 1 ngày tuổi cho tới khi xuất bán tại thời điểm 16 tuần tuổi sẽ ăn khoảng 5 kg thức ăn. Tại độ tuổi này, các con trống khối lượng khoảng 1,3kg và con mái là 1,0kg.
IV. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP
Các bệnh thường gặp khi nuôi chim trĩ đỏ :
- Bệnh tiêu chảy , Ecoli : chủ yếu sảy ra sau quá trình vận chuyển hoặc môi trường nuôi không đảm bảo : Dùng Vaccin đặc trị Ecoli cho gia cầm tiêm hoặc cho uống ( liều lượng bằng 2,5 lần hướng dẫn trên bao bì )
- Bệnh về đường hô hấp : ( hen phổi , nấm phổi ) : Chim có hiện tượng thở khò khè , chảy nước mũi ,thở ngáp rồi chết. Nguyên nhân do thay đổi thời tiết , hoặc mật đồ nuôi dày , Cách trị : Dùng thuốc đặc trị hen của gà nhỏ trực tiếp với liều dùng bằng 2 lần hướng dẫn sử dụng trên bao bì , Điều chỉnh lại mật độ nuôi , vệ sinh chuồng nuôi bằng thuốc khử trùng ,
- Bệnh đau mắt ( sưng mặt ) : Biểu hiện : Mắt chim có màng đục nhắm lại , 1 trong hai bên má sưng : Chim bị mù dẫn đến không thể tự ăn , uống được mà chết : Cách trị : Dùng thuốc nhỏ mắt của người nhỏ từ 3 – 5 giọt . Kết hợp với tiêm nếu phát hiện trong mắt có giun , sán.
Ngoài ra trong quá trình nuôi chim trĩ thường mắc 1 số bệnh khác ít thấy biểu hiện trên gia cầm thông dụng . Để đảm bảo tỉ lệ nuôi thành công thì khâu vệ sinh chuồng trại là 1 yếu tố rất quan trọng , Đồng thời những cá nhân mới gây nuôi nên đến trực tiếp các trang trại , cá nhân có nhiều năm kinh nghiệm nuôi trĩ để tham khảo học tập kinh nghiệm .
4.1. Bệnh do virút gây ra
4.1.1. Bệnh Newcastle
- Đặc điểm chung:
Do virút gây ra, là bệnh đặc biệt nguy hiểm đối với gia cầm và chim. Lây lan nhanh, mạnh. Gây ốm và chết nhiều ở mọi lứa tuổi. Bệnh xảy ra quanh năm. Không thể chữa bằng thuốc, chỉ có thể phòng bằng vacxin.
- Đường lây lan:
Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hoá. Do tiếp xúc giữa nhBng con ốm và con khoẻ. Do bụi, gió và không khí có mầm bệnh. Do phương tiện vận chuyển, thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh. Do dụng cụ chăn nuôi thú y nhiễm mầm bệnh. Do công nhân chăn nuôi, khách thăm quan đến từ vùng có bệnh. Do động vật, chim mang mầm bệnh.
- Triệu chứng (những biểu hiện bên ngoài):
Chim ủ rũ mào thâm, ăn ít, chảy nhớt dãi. Diều căng, đầy hơi. Khó thở kèm theo tiếng kêu “tóc – tóc” nhất là ban đêm. Tiêu chảy, phân loãng có màu trắng, xanh, cứt cò. Chim ốm chết nhiều. Con sống sót để lại di chứng thần kinh, nghẹo cổ, đi vòng quanh, mổ thức ăn không chính xác. - Bệnh tích (những biểu hiện bên trong):
Xuất huyết ở lỗ huyệt, thanh khí quản có nhiều dịch nhầy và xuất huyết. Dạ dày tuyến xuất huyết và loét. Thành ruột xuất huyết và loét hình cúc áo. Van hồi manh tràng xuất huyết
- Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh: không nên nuôi chung các lứa tuổi. Đảm bảo chuông nuôi, thức ăn, nước uống sạch sẽ ăn uống đủ chất đủ lượng. Biên pháp hữu hiệu nhất là sử dụng vacxin phòng bệnh theo lịch ở các độ tuổi khác nhau.
+ Điều trị bệnh:
Khi có bệnh Newcastle xảy ra nên thông báo ngay cho cán bộ thú y cơ sở. Dùng vacxin cho những đàn chưa mắc bệnh, bổ xung thuốc bổ tăng sức đề kháng cho đàn chim. Cách ly đàn chim ốm, đốt xác chim ốm, chết hoặc chôn rồi rắc vôi bột. Không bán chạy chim ốm. Không được đến thăm các nơi nuôi chim khác. Sát trùng chuồng nuôi, sân thả chim, dụng cụ chăn nuôi và khu vức xung quanh hàng ngày. Thu dọn chất thải phân đem đốt hàng ngày. Rắc vôi bột để cách ly chuồng nuôi với khu vực xung quanh và rắc ở lối ra vào chuồng nuôi, Khi đã nổ bệnh có thể đưa vacxin trở lại nhưng tỷ lệ khỏi bệnh không cao.
Qua nghiên cứu các tài liệu khoa học và thực tế gây nuôi bảo tồn phát triển tại trang trại của Công ty cổ phần thực phẩm tiêu chuẩn GAP thấy rằng chim trĩ rất khó lây nhiễm các bệnh như bệnh Gumboro và bệnh đậu (Trang trại chúng tôi không tiêm phòng các Vacxin Gumboro và đậu gà, và cũng chưa thấy bất kỳ triệu chứng nào của các bệnh này). Trong khi đó bệnh Newcastle thì đặc biệt nguy hiểm đối chim trĩ, cần phải tiêm phòng đầy đủ, đúng liều lượng (2 lần Lasota trong thời gian úm 1 tháng, tiêm Newcastle lần 1 vào tháng thứ 2, lần 2 vào tháng 4, lần 3 vào cuối tháng 7).
4.1.2. Cúm A/H5N1
Tiêm chủng theo lịch của thú y địa phương.
4.2. Bệnh do vi khuẩn gây ra
4.2.1. Bệnh tụ huyết trùng
- Đặc điểm của bệnh:
Do vi khuẩn gây nên. Chim các lứa tuổi đều mắc. Bệnh gây chết nhanh và nhiều trong cùng một thời gian. Bệnh hay tái phát trong cùng một khu vực. Có thể phòng bằng vacxin và điều trị bằng kháng sinh.
- Đường lây lan:
Qua đường tiêu hoá, hô hấp, do thức ăn nước uống nhiễm mầm bệnh, do tiếp xúc giữa con ốm với con khoẻ.
- Triệu chứng (những biểu hiện bên ngoài):
Tuỳ thuộc vào mức độ gây bệnh mà mầm bệnh có thể phát ra nhanh hay chậm. Trường hợp bệnh cấp tính: Chim chết đột ngột, đang đi lăn đùng ra chết. Chết khi đang nằm trong ổ đẻ. Trường hợp bệnh mãn tính: chim ủ rũ, bỏ ăn đi lại chậm chạp, nước nhầy chảy ra từ miệng, đôi khi lẫn máu, tích tím bầm. Phân lỏng hoặc xanh đôi khi có dính máu. Khó thở, chết do ngạt thở, xác tím bầm, máu đông kém. Nếu bệnh kéo dài, viêm kết mạc mắt, tích sưng, khớp sưng đi lại khó khăn.
- Bệnh tích (biểu hiện bên trong):
Tụ huyết ở các cơ quan nội tạng. Gan sưng có nốt hoại tử lấm tấm trắng. Bao tim tích nước, xuất huyết vành tim, có dịch nhầy trong khớp.
- Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh
Vệ sinh sạch sẽ, giữ chuồng luôn khô ráo, thức ăn nước uống đảm bảo hợp vệ sinh, định kỳ sử dụng kháng sinh trộn thức ăn 3-5 ngày /lần.
Dùng vácxin phòng bệnh không bảo hộ tốt, vì hiệu giá của vacxin này trong thực tế không cao.
+ Điều trị: Có thể dùng các loại kháng sinh sau:
- Tetracylin, Streptomycine, Coxsmix forte, Neotezol, Ampicillin, Enrofloxacin. Liều lượng và thời dùng theo hướng dẫn ghi trên nhãn thuốc.
4.2.2. Bệnh cầu trùng
- Đặc điểm chung:
Bệnh do một loại ký sinh trùng đặc biệt gọi là cầu trùng có kích thước rất nhỏ gây nên. Chim mọi lứa tuôỉ đều mắc, nặng nhất là giai đoạn 2 - 8 tuần tuổi. bệnh xảy ra quanh năm nặng nhất vào vụ xuân hè khi thời tiết nóng ẩm. Chim nuôi nhốt chật chội, đệm lót chuồng ẩm ướt là điều kiện thụân lợi để bệnh bùng phát .
- Đường lây lan :
Qua thức ăn, nước uống, chất độn chuồng .v.v. Noãn nang cầu trùng có sức đề kháng cao trong môi trường, có thể tồn tại hàng tháng trong điều kiện bình thường, khó bị tiêu diệt bằng các loại thuốc sát trùng, bị tiêu diệt chậm dưới ánh nắng mặt trời, dễ bị tiêu diệt ở nhiệt độ cao 600C.
- Triệu chứng (biểu hiện bên ngoài):
Con vật ủ rũ bỏ ăn uống nhiều nước, phân lỏng, máu tươi hoặc có màu sôcôla sẫm. Chim con có thể chết hàng loạt nếu không điều trị kịp thời. Chim trưởng thành chậm lớn, chết rải rác kéo dài.
- Bệnh tích (biểu hiện bên trong):
Cầu trùng manh tràng thì manh tràng sưng to chứa đầy máu. Cầu trùng ruột non thì ruột non căng phồng bên trong chứa đầy dịch nhầy lẫn máu.
- Biện pháp phòng trị:
+ Phòng bệnh: Đảm bảo các biện pháp vệ sinh phòng bệnh. Đặc biệt chú ý giữ cho lớp độn lót chuồng, sân chơi luôn khô ráo. Không nên nuôi chung chim các lứa tuổi, sử dụng NaOH nóng 2% hoặc quét vôi mới tôi để sát trùng nền chuồng trước khi đưa chim vào nuôi. Rắc vôi bột trước cửa chuồng, định kỳ dùng thuốc ức chế cầu trùng để phòng bệnh cho chim có thể sử dụng một số các loại thuốc sau: Octamit, Rigecoxcin. ESB3 .v.v. hoặc có thể dùng Virkon®S phun định kỳ 1 lần/tuần. Khi thời tiết ẩm ướt hoặc vào thời điểm có dịch bệnh gia cầm thì tăng cường 2 lần/tuần.
+ Điều trị: Dùng các loại thuốc như trên với liều điều trị theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Sử dụng kết hợp vitamin C, K và chất điện giải. Nhốt riêng những con bị bệnh nặng cho uống thuốc trực tiếp vào miệng sẽ nhanh khỏi. Thay độn chuồng mới, rắc vôi vào chỗ ẩm ướt.
4.3. Quy trình sử dụng thuốc và Vacxin phòng bệnh cho chim trĩ đỏ nuôi tại trang trại của Cty CP thực phẩm tiêu chuẩn GAP Trước khi bắt chim về 01 ngày, dùng Longlife hoặc Farm Fluid, Chloramin B, HanIodin,… phun sát trùng xung quanh chuồng, toàn bộ không khí và bề mặt trong chuồng: 100 ml/25 lít/82 m2 hoặc phun Virkon®S, pha theo hướng dẫn.
Chú ý:
- Kháng sinh phổ rộng có thể dùng một số loại sau (dùng luân phiên để tránh nhờn thuốc): Genta Costrim, Vinacoc ACB (trị cầu trùng), CRD Stop, Ampicoli.
- Định kỳ mỗi tuần 1 lần sát trùng chuồng bằng Virkon S (10g/4 lít nước/14m2)
- Tiêm chủng cúm A/H5N1 theo lịch của thú y địa phương.
- Có thể cho trĩ uống nước tỏi 1 lần/tuần: Đập dập 2-3 củ tỏi sống, để trong không khí 15-20 phút sau đem hoà với 10-15/lít nước đem cho chim uống, bã tỏi rải quanh chuồng cho chim ngửi mùi. Các chất kháng sinh thực vật có trong tỏi tiêu diệt mạnh virus cúm gia cầm.
- Cho chim uống B-complex 2 lần/tuần.
- Cho chim uống Vitammin C 2 lần/tuần.
- Vào những ngày không ghi trong lịch trình, dùng A-T 112 hoạc Multisol G nhằm tăng sức đề kháng và giúp chim khỏe mạnh.
- Vào những ngày nắng nóng, cho uống A-T 111 (1 g/ 4 lít nước) và A-T 110 (1g/4 lít nước). Chú ý cho uống vào buối sáng.
- Có thể dùng Vitamin C thay thế A-T111.
Nguồn gốc: Xã Đông Tảo, huyện Khoái Châu, Tỉnh Hưng Yên.
Ky-Thuat-Nuoi-Ga-Dong-Tao
Hình thái: Đặc điểm nổi bật: chân to và thô. Gà mới nở có lông trắng đục. Gà mái trưởng thành có lông màu vàng nhạt, nâu nhạt. Gà trống có màu lông mận chín pha đen, đỉnh đuôi và cánh có màu lông đen ánh xanh. Mào kép, nụ, ‘hoa hồng’, ‘bèo dâu’. Thân hình to, ngực sâu, lườn rộng dài,xương to. Dáng đi chậm chạp, nặng nề. Khối lượng mới nở 38-40 gam. Mọc lông chậm. Lúc trưởng thành con trống nặng 5,5 - 6 kg, con mái nặng 4 kg/con. Một trong những điểm đặc biệt của gà Đông Tảo thuần chủng là bộ lông. Gà Đông Tảo trống có hai mã lông cơ bản: mã mận (nói theo cách người Bắc), tức là màu tím pha đen; màu của trái mận (plum) tam hoa Bắc Hà, Bắc Giang đã chín hết cỡ. Loại gà mã linh, tức là màu đen bóng – óng ánh bề mặt. Mào gà Đông Tảo trống là mào sun (ngắn và thun lại) màu đỏ tía, tích và dái tai màu đỏ, kém phát triển, nhìn gọn và khỏe. Gà Đông Tảo mái có ba mã cơ bản gồm: mã nõn chuối – vàng nhạt; mã thó hay nâu nhạt – màu đất thó hay lá chuối khô; mã ngà – trắng sữa. Lông phần cổ và cánh gà mái thường có pha trộn (cắm vào nền) những chiếc lông màu vàng, trắng sữa, nâu đỏ, đen. Gà mái cũng có mào tựa mào con trống nhưng chỉ to bằng 1/3 so với mào gà trống. Các vị trí da không có lông trên mình gà (cả trống và mái) đều có màu đỏ. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến khác nhau về màu sắc đỏ hay vàng của chân gà đông tảo. Cặp chân gà trống to hơn cả trái chuối; to nhất so với các giống gà trong và ngoài nước. Ngoài ra chân gà Đông Tảo còn có sự khác biệt: bao quanh chân ở phía trước là một lớp vảy da sắp xếp không theo hàng, phần còn lại (3/4 diện tích) da sùi giống bề mặt trái dâu tằm ăn, bốn ngón chân xòe ra, chia ngón rõ nét, bàn chân dày, cân đối nên gà bước đi vững chắc
Năng suất, sản phẩm: Bắt đầu đẻ lúc 160 ngày tuổi. Nếu để gà đẻ rồi tự ấp thì trong 10 tháng sẽ đẻ được 70 quả. Còn nếu gà đẻ rồi lấy trứng ra ấp, thì gà đẻ khoảng 100 quả/ năm.
Khối lượng trứng: 48-55 gam/quả. Thường được dùng để cúng tế - hội hè. Là vật nuôi cổ truyền
Thức ăn: cho gà Đông Tảo ăn lúa, bắp tẻ nguyên hạt, hoặc thức ăn gà trộn rau muống, rau lang xắt nhỏ là chính, có thể kèm lúa, bắp xay…( thức ăn của gà Đông Tảo gần giống như thức ăn các loại gà thả vườn.
Chú ý: Nuôi gà Đông Tảo cần đặc biệt quan tâm bảo quản gà con. Khi mới nở, ngoài vài cọng lông cánh nhỏ, gà con mang lông tơ đầy mình. Sau 3 – 4 tuần tuổi, gà rụng hết lông tơ mới mọc lông vũ một cách chậm chạp trong 4 – 5 tháng.

Nhìn chung nuôi gà Đông Tảo cũng giống như nuôi gà thả vườn mà lợi nhuận kinh tế của nó thì rất cao.
Trại Thanh Phong nhận cung ứng con giống chim Công ( công xanh, và chim công trắng), chim trĩ đỏ có đầy đủ giấy tờ của Chi cục kiểm lâm và gà đông tảo, chồn nhung đen cho bà con chăn nuôi. Trại sẽ hướng dẫn thông tin kỹ thuật về cách nuôi dưỡng, chăm sóc sinh sản, ấp nở và nơi cung cấp máy ấp công nghiệp đạt tỉ lệ ấp nở cao. Xin liên hệ Trại Thanh Phong : 0917.109.910- anh Phong tại Thị xã Gò Công, Huyện Gò Công Đông, Tỉnh Tiền Giang.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Gà con mới nở không cho ăn liền nên để khoảng 48 giờ sau thì mới tập cho gà ăn vì trong bụng của gà con còn túi trứng noãn hoàng có thể nuôi sống gà đông tảo trong vòng 3 ngày đầu. Nếu cho gà con ăn sớm sẽ khó tiêu hoá hết noãn hoàng dễ gây nên tình trạng trĩn địt ở gà.
A/. KỸ THUẬT ƯƠM GÀ:

1. Xuống ổ gà con:

Gà con vừa mới nở ra khỏi vỏ không nên cho xuống ổ ngay mà phải để trong máy ấp hay ổ ấp 24 giờ cho khô lông thì mới được đem xuống.

2. Chọn gà con:

- Nếu đi mua gà bán ở chợ hay lò ấp thì không nên chọn mua những con gà nguội hay gà cù là những con gà còn lại đèo đẹt, nhẹ cân, mập nước, gà còn lại quá 2 -3 ngày người bán không chăm sóc, không cho uống nước nên sự trao đổi chất bên trong bị giới hạn hoặc cho ăn quá sớm gà con còn noãn hoàng không tiêu hóa thức ăn được nên dễ dẫn đến trĩn đít.

- Chọn gà mới nở phải chọn những con gà nhanh nhẹn và đều nhau. Da chân săn, mình đầy lông, còn bụi lông tơ dính vào chân. Loại bỏ những con có tật như đầu không sọ, không lông, mù mắt, mỏ chèo, chân què, chân cao chân thấp, bụng mềm căng đầy nước, da bụng mỏng lộ cả ruột bên trong, có vòng đen quanh rốn, chưa phát triển lông vùng bụng, cánh chéo hoặc sệ.

- Gà con trên 1 tuần tuổi thường cắn mổ lẫn nhau có thể do thiếu dinh dưỡng, thiếu chất, lượng nhốt ở mật độ quá chật, ánh đèn quá chói mắt gà. Nên dùng kềm cắt 1/3 mỏ trên, gà đã cắt mỏ vẫn ăn uống bình thường nên dùng xanh Methylen sát trùng mỏ để tránh bị nhiễm trùng.



3. Cách cho ăn:

- Gà mới nở không cho ăn liền nên để khoảng 48 giờ sau thì mới tập cho gà ăn vì trong bụng của gà con còn túi trứng noãn hoàng có thể nuôi sống gà trong vòng 3 ngày đầu. Nếu cho gà con ăn sớm sẽ khó tiêu hoá hết noãn hoàng dễ gây nên tình trạng trĩn địt ở gà.

- Trong 2 ngày đầu chỉ cho gà con uống nước, ngày thứ 3 có thể cho gà ăn các loại thức ăn dễ tiêu hóa như:  tấm, gạo, mè, . . . .v.v và từ ngày thứ 4 trở đi có thể cho gà ăn các loại thức ăn hỗn hợp.



4. Cách cho uống :
- Cho gà uống nước có pha các loại kháng sinh như: Ampicolifort, Tylanvit C hoặc Amoxypen để phòng ngừa các bệnh cho gà như: thương hàn, tụ huyết trùng, E.Coli, CRD, . . . .cho uống thường xuyên, dùng máng úp ngược, để máng trong chuồng ở nhiều nơi và thường xuyên chùi rửa bằng thuốc sát trùng và đem phơi nắng.
B. QUI TRÌNH PHÒNG BỆNH CHO GÀ:



TT
Ngày tuổi
Phòng bệnh
Phương thức
01
1 – 3
Ngừa bằng kháng sinh như: Ampicolifort hoặc Amoxypen
Cho uống
02
4
Newcastle lần 1
Nhỏ mắt, mũi
03
7
Gumboro lần 1
Cho uống
04
10
Đậu gà
Tiêm xuyên qua da cánh
05
11,12,13
Ngừa cầu trùng
Cho uống
06
15
Cúm gia cầm
Tiêm dưới da cổ hoặc ức
07
21
Newcastle lần 2
Nhỏ mắt, mũi
08
22,23
Ngừa cầu trùng
Cho uống
09
28
Gumboro lần 2
Cho uống
10
42
Tẩy giun
Cho uống
11
60
Newcastle lần 3
Tiêm dưới da



Lưu ý: Thời điểm tiêm phòng tốt nhất là vào lúc chiều mát.
Các hộ chăn nuôi, đặc biệt là những hộ có heo bị bệnh phải rắc vôi bột, phun hoá chất tiêu độc khử trùng khu vực chuồng trại, để trống chuồng ít nhất một tháng trước khi nuôi lứa heo mới.
Thời điểm này, dịch bệnh tai xanh trong tỉnh Bến Tre đã hoàn toàn được khống chế. Tuy nhiên ở một số tỉnh dịch vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Theo Cục Thú y, tính đến ngày 28/11/2010, cả nước vẫn còn 9 tỉnh có dịch tai xanh chưa qua 21 ngày; trong đó có một số tỉnh lân cận trong khu vực như Trà Vinh, Cà Mau. Hiện nay nhu cầu về heo thịt và heo giống ở các thị trường đều tăng; một số nơi, heo con trở nên khan hiếm khi bà con bắt đầu nuôi lại. Tuy nhiên bà con chăn nuôi cần thận trọng, không nên tái đàn ồ ạt.
Để phòng tránh dịch bệnh tai xanh tái bùng phát và phát triển chăn nuôi ổn định, bà con cần chú ý một số việc như sau:
1. Vệ sinh, khử trùng tiêu độc chuồng trại trước khi nuôi:
Các hộ chăn nuôi, đặc biệt là những hộ có heo bị bệnh phải rắc vôi bột, phun hoá chất tiêu độc khử trùng khu vực chuồng trại, để trống chuồng ít nhất một tháng trước khi nuôi lứa heo mới.
Các hộ chăn nuôi chưa có heo bị bệnh, sau khi xuất bán mỗi lứa heo phải thu dọn chất thải, vệ sinh, khử trùng tiêu độc; để trống chuồng trong thời gian tối thiểu là 7 ngày trước khi nuôi lứa heo mới.
Trong thời gian nuôi, hàng ngày phải dọn vệ sinh và định kỳ hàng tuần phun hoá chất tiêu độc khử trùng bằng các hóa chất sát trùng thông thường như: vôi bột, chlorine, iodine… hoặc các loại thuốc sát trùng khác theo hướng dẫn của nhà sản xuất.
2. Về con giống
Khi mua heo giống nên xem xét kỹ nguồn gốc, tốt nhất là chỉ mua heo đã được kiểm dịch, nhốt riêng đàn heo mới mua 5-7 ngày để theo dõi.
3. Đối với khu vực chăn nuôi
Ở lối ra vào khu vực chăn nuôi cần có hố sát trùng, có giày, ủng và trang bị bảo hộ sử dụng trong trại.
Đối với các hộ gia đình thì không được nuôi thả rông, chuồng nuôi phải được che chắn, cách ly, nền chuồng phải cao ráo, tránh để các loại vật nuôi khác như gà, vịt… vào chuồng nuôi.
4. Áp dụng các biện pháp chăn nuôi an toàn trong đó cần chú ý tiêm phòng đầy đủ các loại vắc xin phòng bệnh, đặc biệt là vắc-xin dịch tả và tụ huyết trùng, kết hợp chăm sóc tốt để tăng sức đề kháng cho heo. Rút kinh nghiệm từ đợt dịch vừa qua cho thấy ở các trại có qui trình tiêm phòng đầy đủ thì ít xảy ra dịch bệnh thậm chí ngay khi xảy ra dịch tai xanh thì cũng thiệt hại ít và điều trị khỏi. Đặc biệt chú ý đối với phần lớn vắc xin là phải tiêm phòng đủ 2 mũi theo hướng dẫn của nhà sản xuất thì mới đảm bảo được khả năng bảo hộ.
Cuối cùng, khi phát hiện heo có biểu hiện bất thường, bà con chăn nuôi cần báo ngay cho cán bộ thú y, đồng thời tự giác thực hiện các biện pháp cách ly, không bán chạy heo để tránh phát tán mầm bệnh.

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Thỏ cái giống: 4 chân khỏe, nhanh nhẹn, khỏe mạnh, đầu nhỏ, lưng phẳng, hông rộng, tính hiền, có 8 vú trở lên. Bộ phận sinh dục phát triển bình thường. Thỏ cái giống được chọn từ thỏ mẹ có tỷ lệ thụ thai cao, mắn đẻ, đẻ 5 - 6 lứa/năm, 6 - 7 con/lứa. Tỷ lệ nuôi sống từ sơ sinh đến cai sữa trên 80%, thích nghi tốt, không bệnh tật, tăng trọng nhanh. Thỏ đực giống: Nhanh nhẹn, khỏe mạnh, đầu to vừa phải, mắt lanh, ngực to, lưng rộng, chân sau vạm vỡ, lông mướt và rậm, 2 hòn cà đều.
Phối giống


Biểu hiện thỏ cái động dục: Thỏ cái nằm chổng mông, bỏ ăn, bứt lông mình, cắn máng ăn, máng uống, bới lung tung rơm rạ lót chuồng. Hai mép âm hộ lúc đầu hồng nhạt sau hồng đậm hoặc tím bầm. Cho thỏ cái phối giống lúc mép âm hộ có màu hồng đậm. Bắt con cái sang chuồng của con đực để cho phối giống. Nếu làm ngược lại thì thỏ đực không chịu phối hoặc phối nhưng kết quả không cao.


Thời gian phối giống: Vào buổi sáng sớm hay chiều mát (3-4 giờ chiều), nếu thấy thỏ cái cụp đuôi xuống hay vùng vẫy không cho thỏ đực đến gần thì bắt thỏ cái ra, hôm sau thả lại vào chuồng thỏ đực. Khi con cái chịu đực rồi, con đực sẽ kêu lên một tiếng và nằm ngửa thở nhanh. Lúc đó đưa thỏ cái về chuồng. Mỗi thỏ cái cho phối giống 2 lần cách nhau khoảng 4 - 6 giờ.


Chăm sóc, nuôi dưỡng


Thỏ mang thai 34-35 ngày. Trước khi đẻ, cho thỏ ăn nhiều cám, củ cải, rau quả tươi để tránh táo bón và có nhiều sữa nuôi con, cho ăn cỏ phơi khô để tránh bụng chứa quá nhiều nước làm ép thai. Gần ngày đẻ, thỏ nằm duỗi dài, thời gian đẻ xong 1 - 2 giờ, nếu trời lạnh thắp đèn sưởi ấm ổ và thỏ con. Thỏ đẻ không thích ồn ào, ánh sáng và mùi thuốc lá.


Theo dõi thỏ đẻ để phòng thỏ mẹ ăn con, thỏ con bị lọt chuồng. Thỏ đẻ xong phải vệ sinh ổ đẻ và cho thỏ uống nước ngay. Cung cấp đủ nước uống, nếu thiếu nước khi đẻ thỏ mẹ sẽ ăn thịt thỏ con.
Phòng bệnh


Khi thời tiết, môi trường sống thay đổi, hãy bổ sung kháng sinh và vitamin cho thỏ khoảng 3 - 5 ngày để tăng sức đề kháng và chống stress.
Theo dõi đàn thỏ để phòng trị kịp thời các bệnh: Sình bụng, tiêu chảy, ghẻ, viêm mũi, tụ huyết trùng, cầu trùng.
Chăn nuôi heo rừng lai ngày nay không còn xa lạ với bà con chăn nuôi trong tỉnh. Thế nhưng chăn nuôi như thế nào, chăm sóc ra sao thì không phải ai cũng biết rõ. Vì vậy để chăn nuôi heo rừng lai đạt hiệu quả, bà con cần chú ý một số kỹ thuật sau:
1. Chọn giống
Nuôi heo rừng lai cũng giống như heo nhà nên việc chọn giống cũng rất quan trọng. Vì vậy bà con cần chú ý:
- Về hình thức: nên chọn những con có vóc dáng cân đối, lưng thẳng, bụng thon, nhanh nhẹn… Có màu sắc đặc trưng (màu hung đen hoặc xám đen), tính biệt rõ ràng…
- Về nguồn gốc: nên chọn mua heo ở những trại giống lớn, có uy tín nhiều năm liền.
- Con giống phải có giấy chứng nhận kiểm dịch và đã được tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm theo qui định như: lở mồm long móng, dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn…v..v.
2. Chuồng trại
Đối với heo rừng lai việc phòng bệnh là rất quan trọng, vì vậy xây dựng chuồng trại đúng cách đã góp phần rất lớn cho công tác phòng chống dịch bệnh.
- Chuồng được xây dựng đơn giản bằng gạch (khoảng 4m2 mỗi chuồng), có cửa chuồng, có mái che. Có thể xây theo kiểu hệ thống chuồng liên kề với các cửa thông nhau. Nên để một khoảng đất trống (có rào lưới chắc chắn – thường sử dụng là lưới B40) để thả heo con và để heo được sưởi nắng, diện tích tối thiểu là 4 m2/con.
- Trong khoảng đất trống nên trồng thêm một số cây để tạo bóng mát cho heo. Càng nhiều cây rậm rạp càng tốt vì chúng thích hợp với bản chất của con heo rừng.
- Trong chuồng nên có một hồ nước xây nghiêng để heo vào uống nước và dầm mình. Nó không những cung cấp đủ nước cho heo uống mà quan trọng hơn là nó sẽ duy trì được hệ thực vật phong phú tại nơi nuôi chúng và giữ được độ ẩm thích hợp.
- Chuồng nên xây trên nền đất cao ráo, dễ thoát nước, không ẩm ướt để tránh nước đọng và cũng dễ dàng vệ sinh chuồng trại. Trong nền chuồng nên treo ụ bằng lá chuối khô và rơm khô.
- Không nên tận dụng các chuồng trại cũ đã nuôi heo nhà để thả heo rừng, vì mầm bệnh tồn đọng của heo nhà có thể lây sang heo rừng. Mặt khác, khu nuôi phải cách xa khu dân cư và đường sá vì chúng luôn hoảng hốt bỏ chạy khi nghe có tiếng động.
3. Chăm sóc, nuôi dưỡng
- Giai đoạn 1 tháng trước khi sanh, heo mẹ cần được cung cấp đầy đủ và ổn định thức ăn tinh để tránh tình trạng heo con sinh ra bị xù lông, đổ ghèn, tiêu chảy, đi xiêu vẹo 2 chân sau….
- Heo con mới sinh cần được ở trong môi trường khô ráo và đủ ấm.
- Heo con một tuần tuổi cần chích bổ sung sắt. Một tháng tuổi thì tập heo con ăn bằng thức ăn tinh. Đến 1.5 tháng tuổi thì tách mẹ.
- Sau khi tách mẹ (1.5 đến 2 tháng tuổi) heo con được đưa sang chuồng rộng và nuôi ghép với nhiều bầy cùng lứa (10 đến 15 con/chuồng 400m2). Giai đoạn này rất quan trọng để heo con hình thành bộ khung, sức đề kháng để phát triển tốt. Do đó cần bổ sung thức ăn đầy đủ và bổ dưỡng, nên cho ăn thức ăn được nấu chín để dễ hấp thụ.
- Thức ăn của heo rừng chủ yếu là thực vật. Không nên lạm dụng thức ăn giàu dinh dưỡng để nuôi heo rừng vì nó sẽ làm cho chất lượng của heo rừng bị biến đổi và đôi khi heo lại bị bệnh tiêu chảy.
- Thức ăn gồm có: thức ăn xanh tươi (cây chuối, bẹ chuối, thân cây ngô non, rau muống, bèo tây, các loại cỏ, các loại quả xanh v.v.. ), thức ăn tinh (hạt ngũ cốc, củ quả, mầm cây, rễ cây các loại), muối khoáng (tro bếp, đất sét, hỗn hợp đá liếm…). Thực tế cho thấy, heo rừng thường tìm đến nương rẫy mới đốt kiếm tro, đất sét để ăn.
- Mỗi ngày cho ăn 2 lần vào sáng và chiều, một heo rừng lai trưởng thành mỗi ngày tiêu thụ khoảng 2-3kg thức ăn các loại. Ngoài ra cần phải cung cấp nước uống đầy đủ, nên sử dụng nguồn nước sạch đã qua khử trùng.
- Hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, dọn bỏ thức ăn thừa, rửa sạch máng ăn và thay nước trong hồ.
4. Phòng bệnh
Heo rừng lai là vật nuôi mới được lai tạo nên sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy nhiên, heo rừng lai cũng thường bị một số bệnh như: Dịch tả, Tụ huyết trùng, Lở mồm long móng, bệnh sán lá, bệnh ghẻ lở và một số bệnh khác... Do đó cần phải tiêm phòng và định kỳ tẩy giun sán.
- Tiêm phòng vắc xin các loại bệnh như: lở mồm long móng, dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn… mỗi năm một lần.
- Định kỳ tẩy giun, sán 03 tháng một lần, trừ giai đoạn mang thai.

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Cũng giống như các loại gia súc khác là phải chọn qua đời trước (ông bà, bố mẹ) kiểm tra cá thể con giống như ngoại hình, khả năng sản xuất, khả năng thích ứng với điều kiện chăn nuôi và chọn lọc qua đời sau của chúng.
Kỹ thuật chăn nuôi dê
Dê là loài động vật ăn tạp, dễ nuôi, khả năng kháng bệnh cao, chính nhờ những đặc tính đó mà một số hộ dân trong tỉnh đã mạnh dạn đầu tư và thoát nghèo. Để chăn nuôi dê được ổn định, ngày càng phát triển kinh tế gia đình, bà con cần chú ý nắm vững một số kỹ thuật sau:
I- CHUỒNG TRẠI CHĂN NUÔI
Nên thiết kế gồm 3 phần như sau:
1. Chuồng trại: chuồng dê có thể là căn nhà hoặc lán trại đơn giản nhưng phải đảm bảo ở nơi khô ráo, sạch sẽ thông thoáng, tránh nắng nóng và ẩm ướt. Nền chuồng phải phẳng, nhẵn để dễ vệ sinh, có rãnh thoát phân và nước tiểu. Chuồng dê tốt nhất nên làm hướng Đông Nam để mát về mùa hè ấm về mùa đông.
2. Cũi, lồng, chuồng dê: có thể làm bằng tre, gỗ, tầm vong hay tận dụng vật liệu sẵn có. Tất cả đều phải chắc chắn, gọn gàng không để dê chui qua, lọt chân. Sàn chuồng phải cách mặt đất từ 50–80 cm. Chuồng nuôi cần đảm bảo diện tích: Dê đực giống: 1,5 -2 m2, dê thịt 0,6m2.
3. Sân chơi: là phần nền đất, tiếp giáp với chuồng có hàng rào bảo vệ. Khu vực sân chơi phải quang đãng, thoáng mát, có bóng râm, phẳng không đọng nước. Sân chơi thường có diện tích rộng bằng 3 lần diện tích chuồng nuôi.
II. KỸ THUẬT CHỌN GIỐNG
Cũng giống như các loại gia súc khác là phải chọn qua đời trước (ông bà, bố mẹ) kiểm tra cá thể con giống như ngoại hình, khả năng sản xuất, khả năng thích ứng với điều kiện chăn nuôi và chọn lọc qua đời sau của chúng.
a) Chọn giống dê cái:
- Ngoại hình: Chọn những dê có ngoại hình đẹp, mình nở rộng, ngực sâu, thân hình cân đối khỏe mạnh, da mềm, lông bóng. Bầu vú nở rộng, cân đối, núm vú dài và đưa về phía trước có nhiều mạch máu nổi trên bầu vú
- Khả năng sinh sản: Khoảng cách lứa đẻ đều đặn, số con đẻ ra, tỷ lệ nuôi sống cao.
- Khả năng sinh trưởng: chọn những con có chỉ tiêu sinh trưởng cao hơn những con khác trong đàn tại thời điểm sơ sinh, lúc 6 tháng tuổi, lúc phối giống, tuổi đẻ lứa đầu tiên.
b) Chọn giống dê đực:
Chọn những con đực có ngoại hình đẹp, đầu cổ kết hợp hài hòa, thân mình cân đối khỏe mạnh, 4 chân vững chắc, hai dịch hoàn to đều, dáng nhanh nhẹn, tính hăng tốt.
III. KỸ THUẬT CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG
a) Thức ăn cho dê:
Thức ăn cho dê rất đa dạng gồm: các loại cây bụi, cỏ trồng, cỏ mọc tự nhiên, các loại lá cây (so đũa, mít, chuối, sầu đâu, keo dậu, dâm bụt….), phế phẩm nông nghiệp (rơm, thân cây ngô, ngọn mía, dây đậu...), các loại củ quả (khoai lang, bí đỏ, chuối... ), thức ăn tinh, thức ăn khoáng. Thức ăn thô xanh thường chiếm khoảng 55 – 70% khẩu phần ăn của dê.
b) Chăm sóc nuôi dưỡng:
+ Dê con từ sơ sinh đến 10 ngày tuổi.
- Dê con sau đẻ được lau khô, cắt rốn và cho bú sữa đầu ngay. Lưu ý khi cắt rốn phải vuốt sạch máu và cắt cách cuốn rốn 3-4cm.
- Phải giữ ấm cho dê con, không được cho dê con xuống đất tránh tiếp xúc với mầm bệnh.
- Trường hợp dê con sinh ra yếu cần phải hỗ trợ cho dê con bú bình bằng cách vắt sữa đầu cho dê con bú ngày 3-4lần. Nếu dê mẹ không cho con bú thì phải giữ chặt dê mẹ, vắt bỏ tia sữa đầu rồi vắt ít sữa vào miệng cho dê con quen dần sau đó giữ nguyên cho dê con bú no. Tiếp tục làm như vậy cho đến khi dê mẹ chịu cho bú trực tiếp. Chú ý phải hướng dê con bú đều cả 2 vú.
+ Dê con từ 11  đến 45 ngày tuổi.
- Trường hợp nuôi dê cao sản (trên 1lít sữa/ngày): nên tách dê con khỏi dê mẹ để vắt sữa, thường vắt sữa 02 lần/ngày lúc sáng và chiều tối. Sau mỗi lần vắt nên cho dê con bú để khai thác hết sữa mẹ, sau đó tuỳ lượng sữa dê con bú được mà cho bú bình thêm 300-350ml ngày 2-3lần. Tổng lượng sữa dê con bú được từ mẹ là 450-600ml/ngày.
- Đối với chăn nuôi hộ gia đình và dê cho sữa dưới 1lít/ngày thì tách mẹ vào ban đêm (từ 5giờ chiều hôm trước đến 6giờ 30 sáng hôm sau). Dê mẹ được vắt sữa 1 lần/ngày vào buổi sáng sau đó cho dê con theo mẹ cả ngày và không cần cho bú bình thêm
- Từ ngày thứ 11 cần tập cho dê con ăn những thức ăn dễ tiêu như: chuối chín, bột bắp, bột đậu nành rang và đặc biệt là các loại lá non, cỏ non khô ráo sạch sẽ.
+ Giai đoạn 46 – 90 ngày tuổi.
Cho dê ăn từ 50 – 100g thức ăn tinh, lượng thức ăn tăng dần cho đến khi dê con tự ăn và không cần sữa mẹ. Cần cung cấp đủ nước uống sạch cho dê con.
+ Chăm sóc nuôi dưỡng dê hậu bị:
- Chọn những con dê cái, dê đực có ngoại hình đẹp, sinh trưởng phát dục tốt chuyển sang nuôi hậu bị. Dê hậu bị được nuôi theo khẩu phần quy định để tăng khả năng sinh trưởng phát triển. Cho ăn đầy đủ thức ăn thô xanh.
- Cung cấp đủ nước sạch, tăng cường cho dê vận động, thường xuyên vệ sinh chuồng trại, sân chơi, máng ăn, uống sạch sẽ.
+ Chăm sóc nuôi dưỡng dê cái sinh sản.
- Chu kỳ động dục của dê là 21 ngày (dao động 18 – 23 ngày) thời gian mang thai biến động 145 – 157 ngày, phải chuẩn bị dụng cụ đỡ đẻ cho dê trước khi sinh 5 – 7 ngày.
- Khi có chửa, nhu cầu dinh dưỡng của dê tăng dần và cao nhất là 2 tháng cuối, vì vậy phải đảm bảo đủ số lượng và chất lượng thức ăn để dê nuôi thai tốt.
- Dê chửa ở giai đoạn cuối không nên chăn thả xa chuồng và tuyệt đối không được nhốt chung với dê đực.
- Đối với dê chửa lần đầu cần xoa bóp nhẹ đầu vú để kích thích tuyến sữa phát triển.
+ Chăm sóc dê đẻ.
- Dê sắp đẻ nên nhốt riêng từng con ở những chuồng cao ráo, ấm áp.
- Chuẩn bị cũi, ổ nằm cho dê con và dụng cụ đỡ đẻ. Bố trí người trực đỡ đẻ cho dê.
IV. BIỆN PHÁP PHÒNG BỆNH
- Theo dõi sức khoẻ đàn dê hàng ngày, không cho dê ăn thức ăn ướt, dính nước mưa, bùn đất. Cho dê uống nước sạch có bổ sung thêm một ít muối.
- Vệ sinh sạch sẽ chuồng trại, sân chơi, máng ăn, uống hàng ngày, tiêu độc sát trùng chuồng trại chăn nuôi 2 tuần/lần.
- Hàng ngày trước khi chăn thả và sau khi về chuồng phải kiểm tra từng con nhằm phát hiện những con bỏ ăn, đau ốm, loét miệng, chướng hơi đầy bụng để kịp thời điều trị.
- Tách riêng những con bệnh với con khỏe để theo dõi và tránh lây lan trong đàn.
- Định kỳ tẩy giun sán và tiêm phòng các loại vaccin để phòng bệnh truyền nhiễm cho dê như: lở mồm long móng, đậu, tụ huyết trùng…
Chúc bà con chăn nuôi thành công !